1. Vài nét về cây cà phê tại Việt Nam
Cách đây 25 năm, một phần tư thế kỷ, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra với những bước khởi đầu rầm rộ, chủ yếu là tại địa bàn hai tỉnh Đăklăk và Gia lai Kontum ở Tây nguyên.
Giữa những năm 90, giá cà phê trên thị trường thế giới ở mức rất cao. Thời kỳ giá thị trường thế giới tăng cao trùng với giai đoạn có những thay đổi chính sách ở Việt Nam nhằm cải cách kinh tế , trong đó nông dân được giao quyền sử dụng đất ngày càng nhiều. Nhiều nông dân từ chỗ là công nhân nông trường đã trở thành những nhà kinh doanh tự chủ. Kết quả của việc tăng cường tính tự chủ và việc cà phê được giá là nông dân nhận thấy rằng cà phê mang lại những khoản lợi nhuận cao và họ đầu tư vào trồng cà phê. Cà phê là “cây chủ lực” trồng ở vùng đồi núi và các vùng canh tác phân tán; sản lượng cà phê đã tăng gấp gần mười lần trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2001 và đạt mức cao nhất với 900.000 tấn vào năm 2001.
Tuy nhiên, kể từ năm 2000, giá cà phê liên tục giảm do cung vượt quá cầu trên thị trường thế giới, mà chủ yếu là bởi sản lượng gia tăng ở các nước sản xuất chi phí thấp và hiệu quả cao là Bra-xin và Việt Nam. Do giá thấp, người ta đã bỏ đi nhiều diện tích trồng cà phê ở những vùng canh tác không có lợi ở Việt Nam và thay thế bằng những cây nguyên liệu hay cây hoa lợi khác. Tổng cộng có đến trên 50.000 héc ta cà phê đã bị ngừng canh tác.
Từ năm 2005 trở lại đây do giá cà phê liên tục tăng diện tích cà phê đã phát triển ổn định ở mức khoảng 500.000 ha với sản lượng hơn 1 triệu tấn.
2. Đặc điểm mặt hàng cà phê xuất khẩu của Việt Nam
Việt nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu cà phê Arabica và đứng đầu thế giới về sản xuất cà phê Robusta. Chính vì vậy đối với mặt hàng cà phê nước ta có vị trí đáng kể đối với thị trường xuất khẩu trên thế giới.
Tuy nhiên năng suất và sản lượng của cây cà phê thì không ổn định , phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, khi thời tiết thuận lợi thì năng suất thu được sẽ cao kết hợp với việc phát triển diện tích trồng cây cà phê tràn lan tất yếu lượng cung vượt cầu giá cà phê bị giảm sút khó khăn cho các nhà xuất khẩu, còn khi thời tiết không thuận lợi có thể dẫn đến mất mùa năng suất chất lượng suy giảm đẩy giá cà phê lên cao
Như bất kỳ sản phẩm nông nghiệp khác,cà phê là một loại cây trồng theo chu kỳ. Khi cung cà phê lớn, giá thế giới của mặt hàng này giảm. Nhiều nông dân phá sản hoặc chuyển sang trồng các loại hoa màu tương tự khác. Kết quả, cung cà phê trên thế giới giảm còn giá tăng trở lại. Một lần nữa, mối lợi tài chính lại khiến người nông dân quay lại trồng cà phê thay vì các loại hoa màu khác.
3.Tình hình xuất khẩu mặt hàng cà phê của các doanh nghiệp Việt Nam
Hiện cả nước có khoảng 140 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Có một sự khác biệt rõ rệt giữa một bên là các DN lớn, đầu tư máy móc trang thiết bị hiện đại và một bên là các DN nhỏ, xuất khẩu có khi chỉ được 1 container/năm .Ngược lại, 10 DN lớn hàng đầu lại chiếm tới 60-70% lượng cà phê xuất khẩu của cả nước,
với số lượng lớn lên tới 180.000-200.000 tấn/năm.
Việt Nam mặc dù được thế giới đánh giá là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ hai thế giới về sản lượng đứng đầu về cà phê Robusta nhưng việc điều chỉnh mức cung về sản lượng cà phê của Việt Nam không ảnh hưởng nhiều lắm đến thị trường thế giới. Vì mặt hàng cà phê có tính đồng nhất cao, sự tăng lên về cung luôn cao hơn sự tăng lên về cầu , mặt hàng cà phê đang ở trong giai đoạn dư cung. Xét về kim ngạch chỉ đứng thứ 5 đó là do một thực tế đáng buồn là chất lượng cà phê xuất khẩu của chúng ta còn thấp.
Kim ngạch và sản lượng xuất khẩu của việt nam
( Nguồn website của Vicofa)
chỉ tiêu
Năm
Sản lượng
(ngàn tấn)
% tăng lên qua các năm
Kim ngạch
(ngàn USD)
% tăng lên qua các năm
1998
230.000
420.000
1999
390.000
69,6
490.000
17
2000
382.000
– 2
594.000
0.8
2001
488.000
27,75
592.000
-0,3
2002
653.678
34
538.000
– 9
2003
751.296
15
542.000
0.7
2004
835.214
11,2
590.000
9
2005
854.120
2,3
612.000
4
2006
884.000
3.5
1120.000
83
2007
1200.001
35.7
1500.0002
34
Biểu đồ 1: Biểu đồ sản lượng và kim ngạch của Việt Nam (1998- 2005)
Theo thống kê của Café Control, tỷ lệ cà phê loại I (hạt có kích cỡ trên 6,3 mm) chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng xuất khẩu. Theo báo cáo của Hiệp hội Cà phê – ca cao, trong 6 tháng năm 2007, cà phê bị loại thải có nguồn gốc từ Việt Nam chiếm 88% trong tổng số cà phê của thế giới, tăng 19% so với 6 tháng trước đó. Một tiều chuẩn cho cà phê xuất khẩu đã được ban hành cách đây 2 năm là tiều chuẩn 4193: 2005 nhưng hiện nay mới có khoảng 10% số DN XK cà phê và chỉ khoảng 1% – 1,5% sản lượng cà phê XK hàng năm áp dụng tiêu chuẩn này. Đa số các DN cà phê XK đều áp dụng tiêu chuẩn theo hợp đồng trên cơ sở thỏa thuận với đối tác mua, được hình thành thông qua quá trình buôn bán với các nhà NK nước ngoài. Cụ thể các chỉ tiêu bao gồm: cỡ hạt, tỉ lệ tạp chất, tỉ lệ hạt đen, sâu, nâu, vỡ tính theo phần trăm khối lượng. Cái lợi từ việc phân loại cà phê theo tiêu chuẩn hợp đồng thường đơn giản, chi phí thấp. Tuy nhiên, hiện nay còn rất ít quốc gia XK cà phê sử dụng tiêu chuẩn mà các nhà XK Việt Nam đang áp dụng, bởi cách phân loại này quá sơ sài, không đánh giá đầy đủ chất lượng sản phẩm.
Từ chỗ chất lượng cà phê không ổn định nên cà phê Việt Nam thường bị khách hàng ép giá. Cùng một loại sản phẩm, nhưng giá cà phê XK của VN luôn thấp hơn các nước trong khu vực từ 50 đến 70 USD/ tấn, nhiều khi sự chênh lệch này còn lên đến 300 USD nếu so với giá cà phê xuất khẩu của Braxin và Inđônêxia (vào thời điểm tháng 6/2007). Theo tổng kết của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Hội nghị Nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu vừa diễn ra đầu tháng 8/2007, trong 17 năm qua, có đến 9 năm cà phê có giá chỉ từ 420 – 1.000 USD/tấn, chiếm 54%. Như vậy, cà phê Việt Nam chủ yếu thuộc nhóm giá trung bình thấp. Tình hình biến động giá giữa các thàng trong năm cũng diễn ra tương tự. Thông thường, ở Việt Nam vào thời gian đầu vụ cà phê ( đầu năm) giá cà phê giảm xuống thấp thì lượng xuất khẩulại nhiều. Các tháng cuối vụ, giá lên cao thì lượng xuất khẩu lại giảm, làm cho lợi nhuận sản xuất và xuất khẩu cà phê không cao
Thực tế, cà phê Việt Nam chủ yếu xuất qua các tập đoàn thương mại cà phê lớn, rất ít doanh nghiệp trong nước có thể giao dịch trực tiếp với các tập đoàn chế biến trên thế giới. Điều này một phần do chất lượng cà phê của chúng chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà sản xuất này một phần quan trong hơn chúng ta chưa thiết lập được mối quan hệ làm ăn trực tiếp với các tập đoàn này khi mà khả năng dự trữ để cung ứng còn hạn chế. Phần lớn sản lượng cà phê xuất khẩu được bán đi một cách ồ ạt vào những tháng thu hoạch trong khi đó có dầu hiệu cầm chừng thiếu hàng vào những tháng còn lại.
Điều này trong thời gian tới sẽ là một thách thức lớn bởi khi chúng ta gia nhập WTO theo những cam kết gia nhập về mở cửa thị trường các nhà trung gian thương mại này có thể trực tiếp mở chi nhánh thu mua cà phê đây sẽ là một thách thức lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nguyên liệu hiện nay. Thực tế đó đòi hỏi các doanh nghiệp ngay từ bây giờ phải có kế hoạch và hành động tiếp cận đựơc với thị trường của những tập đoàn chế biến trên thế giới để nâng cao giá trị xuất khẩu.
– Bên cạnh đó, 70%-80% số cà phê của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu chủ yếu bán theo phương thức mua bán trực tiếp giá trừ lùi (giá của cà phê của Việt Nam dựa trên giá thị trường thế giới trừ đi một lượng nhất định ), chốt giá sau ( giá cà phê được tính vào thời điểm giao hàng, tỉ lệ rủi ro rất cao khi mà giá cả biến động phức tạp . Để chủ động được khách hàng và giá bán có lợi, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê cần phải tham gia sở giao dịch cà phê London và NewYork , với tài khoản bảo đảm ở ngân hàng nước ngoài. Trước kia, Chính phủ chưa cho phép các doanh nghiệp chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Nhưng Luật Thương mại có hiệu lực vào đầu năm 2006 cũng đã cho phép các doanh nghiệp được mua bán hàng hoá qua sàn giao dịch nước ngoài và doanh nghiệp được phép chọn ngân hàng uy tín để bảo lãnh. Đây sẽ là bước đầu mở đường cho các doanh nghiệp tham gia thị trường hàng hóa
– Hiện nay ngành cà phê cũng chưa xây dựng được những quy chuẩn theo yêu cầu xuất khẩu mà ICO quy định.
4. Biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua
Trong thời gian qua nhìn chung hoạt động đẩy mạnh hoạt động hoạt động xuất khẩu đối với mặt hàng cà phê của các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Các doanh nghiệp hầu hết còn mang tính thụ động thực hiện các hợp đồng xuất khẩu do các nhà nhập khẩu tự tìm đến mà chưa có sự chủ động tìm kiếm khách hàng
Trong thời gian qua, dưới sự giúp đỡ của Bộ Thương Mại ( nay là Bộ Công Thương) và hiệp hội cà phê ca cao Viêt Nam các doanh nghiệp đã có một số chương trình xúc tiến quảng bá hình ảnh cho sản phẩm .Các hoạt động XTTM nhất là xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn bao gồm các hoạt động tình thế tập trung như hội chợ triển lãm về hàng nông sản, các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài hoặc thông qua con đường ngoại giao như Mới đây nhất, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm trong chuyến đi công du sang Mỹ, đã tới thăm sàn Chicago và làm việc về triển vọng hợp tác với Việt Nam, trong lĩnh vực kinh doanh cà phê, hai bên đã ky bản ghi nhớ trong kế hoạch hợp tác quan trọng này
– Bắt đầu đưa sản phẩm cà phê Việt Nam lên sàn giao dịch quốc tế qua sự giúp đỡ của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam. Từ năm 2005 VICOFA đã chỉ định một số doanh nghiệp tham gia thí điểm vào các sàn giao dịch cà phê lớn trên thế giới là sàn giao dịch London và Sàn giao dịch NewYork
– Ngoài ra còn kể đến một số chương trình xúc tiến của các doanh nghiệp tuy nhiên mới chỉ nằm ở phạm vi trong nước như. Năm 2003, doanh nghiệp cà phê Trung Nguyên ra mắt G7, mời gọi mọi người uống cà phê miễn phí tại Dinh Thống Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh). Và đến năm 2005, Đắk Lắk mở Festival cà phê Buôn Ma Thuột . Vào cuối tháng 11/2007, tỉnh Đắk Lắk tổ chức Tuần lễ văn hoá cà phê tại hai thành phố lớn của cả nước đó là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tuần lễ văn hoá cà phê này là hoạt động quảng bá, gắn kết kinh tế với văn hoá, đưa kinh tế cà phê vượt qua giới hạn của hoạt động sản xuất, làm thăng hoa giá trị của cây cà phê để xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu nhằm tăng tiêu thụ cà phê nội địa, vừa đẩy mạnh tiêu thụ cà phê ở nước ngoài, tăng thu nhập cho người trực tiếp sản xuất cà phê. Và gần đây nhất Công ty cổ phần Vinacafe Biên Hòa cũng đã tổ chức một sự kiên gây được sự chú ý đó là lập kỉ lục về ly cà phê lớn nhất thế giới được sách Guness công nhận qua đó giới thiệu quảng bá về sản phẩm cà phê Việt Nam với bạn bè thế giới nói chung và công ty nói riêng, bước đầu xây dựng cho thương hiệu cà phê Việt Nam.
Qua một vài sự kiện có thể thấy các hoạt động xúc tiến cho hoạt động xuất khẩu mặt hàng cà phê của các doanh nghiệp trong thời gian qua nói chung là chưa nhiều, còn lẻ tẻ.
[1] Dự báo
[2] Dự báo